Kinh tế học
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Kinh tế học
Chủ đề Kinh tế học |
Theo một khái niệm chung nhất, kinh tế học là một bộ môn khoa học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng tác nhân tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các đơn vị kinh tế phải giải quyết đối với sự lựa chọn. Các Nhà Kinh tế cho rằng: Kinh tế học là "khoa học của sự lựa chọn". Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối, và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trong thế giới nguồn lực hạn chế.Như vậy, kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể kinh tế riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, các hộ tiêu dùng, người lao động và chính phủ. Mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu tối cao để hướng tới, đó là mục tiêu tối đa hóa các lợi ích kinh tế của họ. Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của các hộ tiêu dùng là tối đa hóa ích lợi khi tiêu dùng và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa phúc lợi xã hội. Kinh tế học có nhiệm vụ giúp các chủ thể kinh tế giải quyết các bài toán tối đa hóa lợi ích kinh tế này.Kinh tế học có hai bộ phận cấu thành hữu cơ là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Dựa vào hành vi kinh tế, các Nhà Kinh tế phân kinh tế học theo hai mức độ phân tích khác nhau: kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô
Kinh tế học vi mô nghiên cứu các quyết định của các cá nhân và doanh nghiệp và các tương tác giữa các quyết định này trên thị trường. Kinh tế học vi mô giải quyết các đơn vị cụ thể của nền kinh tế và xem xét một cách chi tiết cách thức vận hành của các đơn vị kinh tế hay các phân đoạn của nền kinh tế.Mục tiêu của kinh tế học vi mô nhằm giải thích giá và lượng của một hàng hóa cụ thể. Kinh tế học vi mô còn nghiên cứu các qui định, thuế của chính phủ tác động đến giá và lượng hàng hóa và dịch vụ cụ thể. Chẳng hạn, kinh tế học vi mô nghiên cứu các yếu tố nhằm xác định giá và lượng xe hơi, đồng thời nghiên cứu các qui định và thuế của chính phủ tác động đến giá cả và lượng sản xuất xe hơi trên thị trường.[sửa] Kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế quốc dân và kinh tế toàn cầu, xem xét xu hướng phát triến và phân tích biến động một cách tổng thể, toàn diện về cấu trúc của nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế.Mục tiêu phân tích của kinh tế học vĩ mô nhằm giải thích giá cả bình quân, tổng việc làm, tổng thu nhập, tổng sản lượng sản xuất. Kinh tế học vĩ mô còn nghiên cứu các tác động của chính phủ như thuế, chi tiêu, thâm hụt ngân sách lên tổng việc làm và thu nhập. Chẳng hạn, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu chi phí cuộc sống bình quân của dân cư, tổng giá trị sản xuất, chi tiêu ngân sách của một quốc gia.YSự phân biệt kinh tế học vi mô và vĩ mô không có nghĩa là phải tách rời các vấn đề kinh tế một cách riêng biệt. Nhiều vấn đề liên quan đến cả hai. Chẳng hạn, sự ra đời của video game và sự phát triển của thị trường sản phẩm truyền thông. Kinh tế học vĩ mô giải thích ảnh hưởng của phát minh lên tổng chi tiêu và việc làm của toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó, kinh tế học vi mô giải thích các ảnh hưởng của phát minh lên giá và lượng của sản phẩm này và số người tham gia trò chơi.Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô là hai bộ phận cấu thành quan trọng của môn kinh tế học, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mối quan hệ này cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý kinh tế, cần thiết phải giải quyết tốt các vấn đề kinh tế trên cả hai phương diện vi mô và vĩ mô. Nếu chỉ tập trung vào những vấn đề vi mô như tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp mà không có sự điều tiết của chính phủ, thì không thể có một nền kinh tế thực sự phát triển ổn định, bình đẳng và công bằng.Kinh tế học là một nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu sản xuất, phân phối và tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ. Từ "economics" (nghĩa là: kinh tế học) trong tiếng Anh (và các chữ tương tự như: "économiques" trong tiếng Pháp, "Ökonomik" trong tiếng Đức) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với "oikos" là "nhà" và "nomos" là "quy tắc" hay "quy luật", nghĩa là "quy tắc quản lí gia đình". Trong tiếng Việt, từ "kinh tế" là một từ Hán Việt, rút gọn từ cụm từ "kinh bang tế thế"(nghĩa là: trị nước, giúp đời) và từ "học" là một từ Hán Việt có nghĩa là "tiếp thu tri thức" thường được đi kèm sau tên các ngành khoa học (như "ngôn ngữ học","toán học"). Nội dung của khái niệm kinh tế đã mở rộng cùng với sự phát triển xã hội và nhận thức của con người. Kinh tế được xem là một lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người trong việc tạo ra giá trị đồng thời với sự tác động của con người vào thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội. Xuất phát từ nhận thức sự phát triển những mối quan hệ trong quá trình đó đã hình thành một môn khoa học, gọi là khoa học kinh tế, gồm tập hợp các ngành khoa học được chia thành hai nhóm:
- Kinh tế học lý luận (lý thuyết kinh tế) - chuyên nghiên cứu bản chất, nội dung và quy luật phát triển chung nhất của các quá trình kinh tế.
- Kinh tế học ứng dụng – nghiên cứu những chức năng riêng biệt trong quản lý kinh tế, hay nói cách khác, xây dựng những lý thuyết và phương pháp quản lý để ứng dụng trong các ngành kinh tế riêng biệt.
- 1. Xem kinh tế như một hệ thống của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lý thuyết không chỉ nghiên cứu các biểu hiện bên ngoài của các quá trình kinh tế, mà còn liên hệ chúng với bản chất xã hội trong các giai đoạn lịch sử nhất định. Cách tiếp cận này là định hướng của kinh tế chính trị và đặc biệt đối với học thuyết kinh tế chính trị Marx-Lenin
- 2. Xem xét quan hệ nhu cầu - tài nguyên với nhận định rằng nhu cầu là vô hạn, còn tài nguyên là hữu hạn. Trên cơ sở đó lý thuyết kinh tế hướng đến việc tìm ra hiệu quả kinh tế thông qua lựa chọn hợp lý các yếu tố hay tổ hợp các yếu tố sản xuất. Cách tiếp cận này là cơ sở nghiên cứu của Kinh tế học hiện tại (Economics). Nó định hướng cho nghiên cứu vấn đề phân phối các nguồn tài nguyên khan hiếm. Quá trình phân phối trước hết đối mặt với vấn đề con người: "Ai được sử dụng gì?", sau đó là vấn đề thời gian: "Sử dụng trong hiện tại hay trong tương lai?" Trường phái kinh tế học cổ điển cho rằng thị trường là nơi có thể đưa ra một cách tối ưu nhất quyết định ai, tài nguyên nào và khi nào sử dụng; trong khi trường phái kinh tế tập trung cho rằng nhà nước hoàn toàn có thể quyết định thay thị trường phân phối tài nguyên thông qua các công cụ quan sát và kế hoạch hóa. Kể từ John Maynard Keynes, kinh tế học hiện đại được dung hòa giữa vai trò của thị trường và sự can thiệp của nhà nước.
- 3. Xem hệ thống xã hội là tập hợp các quan hệ kinh tế-xã hội mà mục đích của hệ thống đó là tăng trưởng kinh tế bền vững và thịnh vượng xã hội thông qua sử dụng hiệu quả tài nguyên và cách điều hòa hợp lý của nhà nước. Cách tiếp cận này tạo cơ sở nghiên cứu cho kinh tế học định chế.
Lĩnh vực nghiên cứu được phân loại bằng các cách khác nhau:
- 1. Kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô và kinh tế thế giới là cách chia theo kinh tế học hiện tại (Economics)
- 2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học được gọi là thực chứng khi nó nhằm mục đích giải thích các hậu quả từ những lựa chọn khác nhau dựa trên một tập hợp các giả định hay các quan sát và được gọi là chuẩn tắc khi nó nhằm đưa ra lời khuyên cần phải làm gì.
- 3. Kinh tế chính thống và kinh tế phi chính thống. Được gọi là chính thống nếu định hướng nghiên cứu tuân theo tổ hợp giả thuyết “Hợp lý – Chủ nghĩa cá thể - Cân bằng” và phi chính thống nếu chuyên theo “Định chế - Lịch sử - Cơ cấu xã hội”.
- 4. Phân loại theo ngành nếu nghiên cứu kinh tế kết hợp với các ngành khoa học khác hoặc vấn đề kinh tế nằm trong phạm vi các lĩnh vực nghiên cứu khác. Đó là: địa lý kinh tế, lịch sử kinh tế, kinh tế văn hóa, kinh tế công cộng, kinh tế tiền tệ, kinh tế quốc tế, kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp, kinh tế môi trường, kinh tế tài chính, kinh tế thông tin, kinh tế lao động, luật và kinh tế, toán kinh tế, lý thuyết trò chơi, thống kê, kinh tế lượng, kế toán.
Các trường phái kinh tế học sơ khai
Các trường phái kinh tế học cổ đại xuất hiện rất sớm từ thời các nền dân chủ Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư và Ả Rập. Nhiều học giả nổi tiếng như Aristotle, Chanakya, Tần Thuỷ Hoàng, Thomas Aquinas và Ibn Khaldun vào thế kỷ 14. Joseph Schumpeter được xem là người khởi đầu cho giai đoạn Hậu triết học kinh viện vào khoảng thời gian từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, được đánh giá là "đã tiến rất gần tới chỗ kinh tế học trở thành một khoa học thật sự", khi đã đề cập đến tiền tệ, lãi suất, thuyết giá trị trên quan điểm quy luật tự nhiên. Những khám phá của Ibn Khaldun trong cuốn Muqaddimah được Schumpeter đánh giá là người đi trước và tiến rất gần tới kinh tế học hiện đại, mặc dù các lý thuyết của ông không được biết đến nhiều cho tới tận gần đây.Lý thuyết kinh tế là môn khoa học từ khi nó trở thành một hệ thống kiến thức về các quy luật, nguyên tắc, phương pháp, có khả năng phản ánh và điều hành sự phát triển kinh tế và xã hội. Những tư tưởng kinh tế đã bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ 17-18, giai đoạn hình thành chủ nghĩa tư bản. Có hai nhóm học giả, là những nhà trọng thương và những người trọng nông, đã có những ảnh hưởng trực tiếp hơn đến những bước phát triển về sau này của kinh tế học. Cả hai nhóm này đều liên quan đến sự phát triển của chủ nghĩa bảo hộ nội địa và chủ nghĩa tư bản hiện đại. Trường phái kinh tế đầu tiên là chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism) mà người đại diện của nó là Antuan Moncretien với tác phẩm “Luận bàn về kinh tế chính trị” (1615) đã đưa khái niệm này vào tập hợp thuật ngữ khoa học. Khoa học kinh tế đầu tiên phát triển từ kinh tế chính trị, tuy cuối thế kỷ 19 ở phương Tây thuật ngữ kinh tế chính trị (Political economy) đã được thay bằng thuật ngữ kinh tế học (Economics), đồng thời với sự xuất hiện nhiều học thuyết kinh tế tách các quan hệ chính trị-xã hội ra khỏi đối tượng nghiên cứu, đề xuất những phương pháp mới không liên quan đến thuyết giá trị về lao động hay quyền lợi giai cấp. Chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết kinh tế nở rộ vào thời gian từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 trong các cuộc đàm đạo chính sự, giữa những thương gia và chính khách. Theo chủ nghĩa này thì của cải của quốc gia nên phụ thuộc vào vàng và bạc. Các quốc gia không có sẵn mỏ vàng/bạc có thể vẫn sở hữu vàng/bạc thông qua thương mại bằng cách bán hàng hóa ra nước ngoài và hạn chế nhập khẩu hàng hóa, trừ vàng/bạc. Học thuyết kêu gọi nên nhập khẩu nguyên liệu thô về để chế biến và xuất khẩu lại ra nước ngoài, và chính phủ nên đánh thuế vào hàng hóa đã chế tạo nhập khẩu từ nước ngoài cũng như cấm chế tạo hàng hóa ở các thuộc địa.Chủ nghĩa trọng nông, một nhóm các học giả và các nhà lý luận người Pháp vào thế kỷ 18, đã phát triển một quan điểm xem nền kinh tế như một vòng luân chuyển của thu nhập và đầu ra; họ cho rằng lĩnh vực quan trọng của kinh tế là sản xuất chứ không phải thương mại. Người đứng đầu khuynh hướng này là François Quesnay. Trong “Biểu đồ kinh tế” của mình ông phân tích quá trình tái sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm xã hội giữa ba thành phần giai cấp: người sản xuất, chủ đất và người phi sản xuất. Như vậy trường phái cổ điển đã chuyển hướng nghiên cứu từ lĩnh vực thương mại sang lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất, xây dựng nền móng cho thuyết giá trị về lao động. Các nhà kinh tế cổ điển đánh giá phát triển xã hội bằng sự kết hợp hai phương diện kinh tế và xã hội. Những nhà trọng nông tin rằng chỉ có sản xuất nông nghiệp mới có thể tạo ra thặng dư rõ rệt so với chi phí, vì thế, nông nghiệp là nền tảng của của cải. Họ phản đối chính sach của những nhà trọng thương đã khuếch trường chế tạo và thương mại bằng cách bòn rút từ nông nghiệp, trong đó có thuế quan nhập khẩu. Những nhà trọng nông ủng hộ việc từ bỏ thuế đánh trên chi phí theo đơn vị hành chính sang sử dụng một loại thế duy nhất đánh trên thu nhập của chủ đất. Những sự thay đổi quan điểm về thuế bất động sản vẫn còn xuất hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế học sau này (ví dụ như Henry George vào một thế kỷ sau), với các quan điểm về doanh thu thuế đạt được từ những nguồn không gây méo mó thị trường. Các nhà trọng nông, nói chung, là một phía đối chọi với làn sóng của chủ nghĩa trọng thương với những quy tắc thương mại; họ ủng hộ một chính sách "laissez-faire" (tiếng Pháp: dịch: hãy cứ làm điều đó) kêu gọi sự can thiệp tối thiểu của chính phủ vào thị trường. Kinh tế học cổ điển
Phát triển thật sự của kinh tế học bắt đầu từ trường phái cổ điển. Những công trình khoa học của những nhà kinh tế học đại diện trường phái này như “Luận bàn về thuế” (1662) của William Petty, “Biểu đồ kinh tế” (1758) của François Quesnay, “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giàu có của các quốc gia” (hay “Sự giàu có của các quốc gia”) (1776) của Adam Smith, “Nguyên lý kinh tế chính trị và áp thuế” (1817) của David Ricardo.Cuối nửa thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 từ trường phái cổ điển xuất hiện nhiều khuynh hướng khác, trong số đó có Kinh tế tân cổ điển với các nhà khoa học Carl Menger, E. Roy Weintraub, Léon Walras, William Stanley Jevons, John Bates Clark, Alfred Marshall và Kinh tế chính trị Marx-Lenin. Trong Kinh tế tân cổ điển có trường phái Kinh tế lịch sử (V. Zombart, M.Veblen), học thuyết định chế (T. Veblen, J. Gelbrath), thuyết hiệu dụng biên (J. B. Clark, C. Menger, F. Hayek). Các nhà kinh tế tân cổ điển nghiên cứu các quá trình kinh tế cụ thể, hành vi các chủ thể kinh tế, cơ chế thị trường tự do. Theo họ nhà nước chỉ giữ vững các điều kiện để phát triển thị trường và cạnh tranh, nhưng không nên can thiệp vào hoạt động kinh tế.[sửa] Kinh tế học Mác-xít
Kinh tế chính trị Marx-Lenin được trình bày trong các tác phẩm lý luận như: “Tư bản” (Karl Marx), “Chống Duyring” (F. Engels), “Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” (V.I.Lenin). Trên cơ sở phân tích sự phát triển chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn lịch sử của nó Marx đã phát triển và củng cố thuyết giá trị về lao động và xây dựng thuyết giá trị thặng dư, thuyết tích lũy và chuyển động tư bản, chỉ ra cơ chế vận động và mâu thuẫn trong xã hội tư sản.Trường phái Keynesian
Trường phái Keynesian xuất hiện trong thập niên 30 của thế kỷ 20 do nhà kinh tế lỗi lạc John Maynard Keynes sáng lập như một khuynh hướng độc lập với trường phái tân cổ điển. Tác phẩm “Lý thuyết cơ bản về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của Keynes đưa ra những phương pháp điều chỉnh kinh tế từ phía nhà nước nhằm giảm mức thất nghiệp, dùng các công cụ tài chính để làm tăng hiệu quả lượng cầu hàng hóa, tăng tỷ lệ tiêu dùng.Vào nửa đầu thập niên 50 thế kỷ 20 trường phái Tân Keynesian tiếp nhận những quan điểm cơ bản của Keynes và trình bày lý thuyết tốc độ và yếu tố tăng trưởng, xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế. Những công trình nghiên cứu của R. Harrod, E. Domar, E. Hansen tập trung vào vấn đề kết hợp hiệu quả các yếu tố, làm sao trong điều kiện cạnh tranh tự do có thể tăng lượng sản xuất và giảm tối thiểu chi phí lao động và vốn.Trường phái tân cổ điển với học thuyết tự do kinh doanh còn phục hưng trở lại ở thập niên 70-80 với chủ nghĩa tiền tệ. Đứng đầu học thuyết này là M. Fridman, F. Hayek, cho rằng tiền tệ và lưu thông tiền tệ là công cụ hiệu quả của điều chỉnh và tự điều chỉnh thị trường, có khả năng đảm bảo ổn định và phát triển phi khủng hoảng kinh tế.Quan điểm về sự kết hợp giữa điều hòa sản xuất khu vực nhà nước với kích thích tự do thị trường là khuynh hướng của chủ nghĩa tổng hợp do J. R. Hiks, P. Samuelson và những người khác lập nên trong những năm gần đây.Các học thuyết kinh tế ra đời từ các trường phái hay khuynh hướng nổi tiếng như trường phái Áo, trường phái Chicago, trường phái Freiburg, trường phái Lausanne và trường phái Stockholm. Các quy luật kinh tếCác quy luật kinh tế khách quan
- Quy luật giá trị
- Quy luật cầu
- Quy luật cung
- Quy luật cung - cầu
- Quy luật ích dụng giảm biên
- Quy luật hiệu suất giảm
- Quy luật chi phí thay thế tăng
- Quy luật ảnh hưởng nhất định của lượng tài nguyên tối thiểu
- Xu hướng bảo toàn cân bằng của hệ thống
- Mâu thuẫn phát triển của hệ thống
- Tính chu kỳ của hệ thống
- Sức chứa biên của thị trường
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
- Sự kích thích quyền lợi nhà sản xuất
- Phân phối thu nhập theo lao động
- Sự thay thế và tái tạo tài nguyên vật chất và tài nguyên lao động
- Hiệu quả tối ưu của sở hữu hoàn toàn.
Hệ thống kinh tế là toàn bộ những thành phần có trật tự, mang tính tổ chức, tương đối biệt lập, và có khả năng thực hiện một loạt các chức năng mà những thành phần riêng biệt của hệ thống không thể thực hiện được. Để xác định đặc điểm của một hệ thống kinh tế bất kỳ người ta dựa trên sự phân biệt các thành phần đặc trưng, tính tổ chức, cơ cấu và các chức năng. Kinh tế là một hệ thống phức tạp, nhiều cấp bậc, tự phát triển. Hai yếu tố quan trọng xây dựng nên hệ thống kinh tế là chủ thể kinh tế và môi trường định chế. Một phương pháp nghiên cứu hệ thống kinh tế là so sánh kinh tế. Đó là xu hướng phân tích kinh tế xuất hiện sau thế chiến thứ hai và gắn liền với tên tuổi các nhà kinh tế học nổi tiếng như P. Samuelson, K. Landuaer, V. Oyken, K. Polany.Có 3 xu hướng cơ bản về phân tích hệ thống kinh tế:
- So sánh những hệ thống kinh tế trước và sau công nghiệp hóa (phân tích so sánh dọc)
- So sánh những hệ thống kinh tế trong cùng một thời đại (phân tích so sánh ngang). Ví dụ: so sánh kinh tế kế hoạch tập trung và kinh tế thị trường
- So sánh các hệ thống chuyển tiếp. Ví dụ từ kinh tế hành chính-mệnh lệnh sang kinh tế thị trường, hay kinh tế thị trường tự do sang kinh tế hỗn hợp.
Giới hạn khả năng sản xuất, chi phí cơ hội và hiệu quả
Kinh tế học trả lời 3 câu hỏi cơ bản:
- Sản xuất cái gì, với số lượng bao nhiêu? (tiêu dùng hay đầu tư, hàng hóa tư nhân hay công cộng, thịt hay khoai tây...)
- Sản xuất như thế nào? (sử dụng công nghệ nào?...)
- Sản xuất cho ai? (sản xuất phải hướng đến nhu cầu người tiêu dùng, phân phối đầu ra cho ai?...)
Sự chuyên môn hóa trong sản xuất đã rất phổ biến trong tổ chức sản xuất. Người ta đã nói đến từ lâu những đóng góp của chuyên môn hóa vào hiệu quả kinh tế và tiến bộ công nghệ.Lý thuyết chỉ ra rằng, các động lực thị trường như là giá sản phẩm đầu ra và đầu vào để sản xuất sẽ phân bổ các yếu tố sản xuất dựa theo lợi thế so sánh. Tiền
Tiền là phương tiện thanh toán khi trao đổi ở hầu hết các nền kinh tế thị trường và là một đơn vị trao đổi thể hiện giá cả. Tiền là một thiết chế xã hội, giống như ngôn ngữ. Là một trung gian trao đổi, tiền làm cho thương mại được tiến hành thuận tiện hơn. Chức năng kinh tế của tiền là trái ngược với cách thức trao đổi hàng đổi hàng( trao đổi không dùng tiền), tiền làm giảm chi phí giao dịch.[sửa] Cung và cầu
Lý thuyết cung cầu là nguyên tắc giải thích giá và lượng hàng hóa trao đổi trong một nền [url=http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_th%E1%BB%8B_tr%C
Similar topics
» Đề cương môn Luật Kinh tế
» Đề cương môn Luật Kinh tế_ ĐH Mở TP HCM
» luật kinh doanh và thương mại : những nguyên tắc cơ bản
» Ebook!!Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế - PGS.TS Trần Bình Trọng
» Đề cương môn Luật Kinh tế_ ĐH Mở TP HCM
» luật kinh doanh và thương mại : những nguyên tắc cơ bản
» Ebook!!Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế - PGS.TS Trần Bình Trọng
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|